Cung Thiên Di cho biết mối quan hệ của đương số với môi trường xã hội bên ngoài, từ việc đi lại lành dữ ra sao, cho đến những sự giao tiếp đối ngoại cùng người được quý trọng nâng đỡ, hay dèm pha dị nghị như thế nào,…
Nếu ta đứng ở vị trí của Di thì tiến trình và mối quan hệ của các cung bên cạnh cung Di cũng gần như tương tự và ngược lại mối quan hệ ở Mệnh: Khi ta ở bên ngoài xã hội, những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới ta nhất chính là Nô Bộc và Tật Ách, người phò trợ giúp đỡ quan tâm tới ta chính là bạn bè đồng nghiệp (tương tự như Huynh Đệ đối ta còn bé ở Mệnh), bệnh tật có thể hành hạ làm tổn thương ta có thể khiến cho ta vong mạng (tương tự như Phụ Mẫu đã sinh hạ và nuôi dưỡng khi ta còn bé ở Mệnh).
Lại nói, khi quan niệm Mệnh cung là nơi ta ra đời phát sinh mệnh vận thì sau 60 năm cuộc đời sẽ đi đến gặp các sao Thương Sứ để rồi tới cung Di sẽ là nơi ra đi an nghỉ vĩnh hằng.
Nói chung Thiên Di mang ý nghĩa về mối quan hệ ngoại cảnh đối với đương số, nhưng ngoài ý nghĩa cung chức thì sự bố cục ở vị trí đối xung vào cung Mệnh mang ý nghĩa rất lớn đối với việc luận giải lá số.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh nói:
Đối chiếu hề tường hung tường cát,
Hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
(Cung đối chiếu cho biết hung biết cát,
Cung hợp chiếu cho biết vinh hoa hay ti tiện).
Sau đó khi luận cung Thiên Di thì tiên sinh lại nói tiếp:
Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mịch.
(Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).
Ta có thể nhận thấy ngay rằng, ở vị trí đối xung vào cung Mệnh nên cung Thiên Di ảnh hưởng trực tiếp cát hung đến cung Mệnh với tác động rất mạnh mẽ rõ rệt. Đồng thời nó cũng biểu thị ý nghĩa cuộc đời con người không chỉ có bó hẹp ở môi trường trong nhà trong gia đình mà còn phải gắn liền với những mối quan hệ bên ngoài xã hội.
Con người ta muốn thành công thì phải học khôn, ở trong gia đình và trường lớp dạy dỗ chưa đủ, cần phải học ở bên ngoài xã hội – trường đời. Cho nên tục ngữ ta có câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, và cổ nhân cũng nói “đọc xong một cuốn sách, cần phải đi ra bên ngoài mười dặm” đây cũng là ý nghĩa của câu “học phải đi đôi với hành”. Mà muốn biết khi đi ra bên ngoài lành dữ thế nào thì phải coi ở cung Thiên Di. Nếu như cát tinh phù tá tụ hội, quý nhân tinh xum họp, thì nhất định đi ra bên ngoài sẽ toàn gặp được hanh thông may mắn, được người nâng đỡ ủng hộ, dẫu có gặp nguy cũng có người cứu giúp thành an, những người được yếu tố này đặc biệt dễ thành công. Còn ngược lại, nếu như Kị ám hung sát tinh tụ tập mà chẳng có cát tinh thì đi ra bên ngoài thường vướng phải những thị phi khẩu thiệt, đụng chuyện đã thiếu người giúp đỡ lại còn họa vô đơn chí khiến cho lâm vào bầm dập trong các tai các nạn. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, những người có cung Di xấu không có nghĩa là họ không thể học khôn ở bên ngoài được và khó thành công cũng không có nghĩa là họ sẽ không thể thành công. Bởi vì chúng ta biết rằng, ở trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt của môi trường thì nó sẽ rèn luyện cho con người ta những trải nghiệm, rút ra được những bài học xương máu để mà khôn, sau mỗi lần vấp ngã thì ai dám đứng lên vượt qua được trở ngại thì nhất định sẽ thu được thành tựu. Chỉ có những người không dám vươn lên, không dám đối đầu với khó khăn mới bị sát hung tinh vùi dập cho không thể ngóc đầu lên được nữa mà thôi. Đôi khi người ta phải biết cám ơn các hung sát tinh, vì nó đem lại cho người ta những sự xung kích mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn.
Cung Thiên Di, khi xét đối với mốt sự kiện nhất định nào đó trong vận hạn, người ta vẫn thường lấy coi làm đối phương của đương số (Chủ ở Bản cung, Khách/đối phương ở xung cung), thí dụ như trong việc tỉ đấu cạnh tranh hoặc là ký kết hợp tác thì cũng đều lấy cung đối xung để mà xét xem cát hung như thế nào. Bởi vậy mà sách nói:
Đối phương cát vị chi ngưỡng diện Xuân phong
Đối phương hung vị chi đương đầu ác bổng.
(Cung đối xung mà có cát tinh tụ hội thì như là ngẩng mặt đón gió Xuân tươi mát,
Cung đối xung mà có hung sát tinh thì chẳng khác gì cây gậy hiểm ác chực chờ đập xuống đầu).
Vì vai trò rất quan trọng của vị trí đối với cung Mệnh mà hầu như tất cả các phép luận từ xưa tới nay trong bộ môn Tử Vi đều xét ngay đến cung Thiên Di sau khi xét Mệnh Thân, Phúc Đức:
Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.
(Thứ nhất khán Phúc Đức, rồi ngay sau đó khảo cứu kỹ Thiên Di,
Phân ra Thể - Dụng với đối cung, xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp).
Đệ nhất biện tân chủ chi phân,
động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
(Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!)
Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại.
Thứ khán Thiên Di, vi động tĩnh nội ngoại chi chủ.
Tài Bạch Quan Lộc, định tam hợp phù trì cát hung.
(Trước xem Phúc Đức an bài
Tinh thần tư tưởng, tổ tông ban vì.
Thứ đến xem ở Thiên Di
Tĩnh động, chủ khách, phân ly trong ngoài.
Tài Bạch, Quan Lộc cả hai
Một vòng tam hợp an bài cát hung).
Còn tiếp..
コメント