top of page
Ảnh của tác giảThi Kieu Oanh Tran

LUẬN GIẢI CUNG TẬT ÁCH.



Cung Tật Ách cho biết tổng quát khái lược về sức khỏe của đương số, trong đó bao gồm cả các Bệnh mà đương số dễ mắc phải, các Tật mà đương số có thể sẽ có (ví dụ tật nói ngọng, nói lắp,… hoặc cái tính kiêu ngạo, hoặc hay nói tục chửi bậy, cũng được coi là tật xấu,.. hoặc người nào có tính táy máy tắt mắt, thấy cái gì của người khác mà thích là liền nhặt lấy mang về chơi, chẳng hỏi han mượn chủ nhân gì cả, dân gian thường gọi là cái tật ăn cắp vặt,… là thuần túy về tật chứ không coi là bệnh), các khiếm khuyết trên cơ thể vừa thuộc Bệnh vừa thuộc Tật mà thông qua các Tai Ách (hoặc do bẩm sinh) mà đương số có thể bị như điếc, lác, mù, què,… Cung Tật Ách cũng cho biết khái lược về một số điểm thuộc tính cách của đương số (ví dụ như thích ăn diện, thích khoe khoang,...).

Có nhiều Tật biểu lộ ra ngay bên ngoài hình tướng của đương số, vì thế xem cung Tật Ách cần rất lưu ý đến cung xung chiếu vào nó là Phụ Mẫu, ngoài ý nghĩa xung chiếu thì cung Phụ Mẫu còn được gọi là cung Tướng Mạo (do ảnh hưởng của các môn tiền thân của môn Tử Vi Đẩu Số như môn Thất Chính Tứ Dư, Thập Bát Phi Tinh) và nó cũng được lý luận rằng thể chất và sức khỏe của đương số là chịu ảnh hưởng rất nhiều từ di truyền cũng như sự chăm sóc của cha mẹ đương số. Bên cạnh đó, tâm sinh lý của đương số ngay từ bé cũng bị ảnh hưởng rất nhiều từ tâm trạng cũng như cuộc sống của cha mẹ có hạnh phúc hay không.

Ngoài những Tật lộ rõ ra bên ngoài thì cũng có những Tật thuộc dạng kín, khó nhìn thấy bằng mắt thường, mà phải do quan sát tập tính thói quen với quá trình lâu dài, hoặc là ở những nơi kín đáo trên cơ thể mà đương số nói ra,… những cái này thường được gọi là Ám Tật.

Xem cung Tật Ách còn cần lưu ý đến cung Phúc Đức, nếu cung Phúc Đức tốt đẹp sáng sủa thì có thể được thừa hưởng âm đức của tổ tiên mà cứu giảm được bệnh tật tai ách phải gánh chịu. Đồng thời cần kết hợp xem Mệnh Thân cung có tốt đẹp hay không, nếu như có các Quý tinh, Phúc Ấm tinh, các sao giải nạn trừ hung thì cũng đều có khả năng giảm thiểu bệnh tật tai ách ở cung Tật Ách. Riêng trường hợp cung Mệnh mà nhị hợp vào cung Tật Ách, như đã nói ở phần an Mệnh theo giờ Quan Sát trong phụ luận cho cung Mệnh, đây là một trường hợp khá đặc biệt vì chỉ khi Mệnh cung an ở Mão Dậu mới gặp hoàn cảnh này. Tam hợp Cục của Mệnh sinh xuất cho Tam hợp Cục của Tật Ách, khiến cho đương số gần như suốt cuộc đời sống cứ phải trăn trở đau đáu về một loại bệnh hay một cái tật nào đó, như một phần định mệnh của đời mình. Có thể người ta bị bệnh hay ốm đau thường xuyên, nhưng cũng có thể người ta bị một cái tật nào đó ám ảnh cả đời (như sống trong hoài niệm, sống với nỗi sợ về sự đổ vỡ nào đó, sợ bị thất bại, sợ bị mất danh tiếng với người thân và những người xung quanh,…), kiểu như vậy bị coi như Mệnh có phần bị lệ thuộc vào Tật Ách nên theo phương thức xoay cung bàn thì cung Mệnh nằm ở vị trí cung Nô của cung Tật Ách.

Trong phần luận cung Tậc Ách ở bài phú Phát Vi Luận thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có nói:

Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;

(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ)

Tức là dùng cái lý tổng quát của việc sát tinh hạng nặng xâm phạm vào cung Tật Ách thì có thể gây ra những bệnh tật rất nặng. Thời xưa, bệnh tuy cũng có nhiều nhưng không phân chia tỉ mỉ như ngày nay, và khi đó tứ chứng nan y vẫn là mù què câm điếc. Còn ngày nay thì y học phát triển, từ đó không còn là vấn đề nan giải nhất đối với nền y học hiện đại nữa. Trong Tử Vi thì cụ thể khi Kình Đà xâm phạm Tật Ách cung thì chưa chắc đã đúng là gây ra đui mù, mà nó có thể gây ra những bệnh tật nặng khác hoặc gia tăng cường độ đối với các tai ách mà đương số mắc phải trong đời.

Bởi vậy, khi luận cung Tật Ách, cần phải nắm cho rõ hình tượng của các sao tương ứng với các bộ phận trên cơ thể con người. Hễ gặp sát hung tinh, ám tinh, thì có thể gây ra những hiện tượng bệnh tật tương ứng với tính chất của chúng trên cơ thể đương số.

Cung Tật Ách rất ưa có Không Vong án ngữ, vì chúng giúp cho đương số tiêu giảm tai ách, có bệnh nhanh khỏi,… Bên cạnh đó, cung Tật Ách cũng rất ưa các sao Phúc Tinh và những bộ sao cứu giải như Đồng Lương (đắc miếu), Thiên Quan Thiên Phúc, Ân Quang Thiên Quý, Thiên / Nguyệt Đức, Tam Giải (Thiên / Địa Giải và Giải Thần), Hóa Khoa,… vì chúng đều là các sao trợ giúp trừ hung giải bệnh tật tai ách.

Có một số sao cũng có tính chất giải trừ bệnh tật tai ách, nhưng nếu gặp nhiều sát tinh quá thì lại khiến cho bệnh tật tai ách kéo dài liên miên mãn tính, đó là những sao như Lộc Tồn, Tràng Sinh,… Lại có những sao vốn được người ta cho là cát tinh, nhưng khi luận về Tật Ách thì nó mang thuộc tính trung lập và thường chủ về cường độ ảnh hưởng, như Hóa Quyền và Tả Hữu, nếu những sao này gặp nhiều cát tinh thì sức cứu giải rất nhanh và mạnh, nhưng nếu nó gặp các sát hung tinh thì càng làm cho bệnh tật tai ách thêm nghiêm trọng khẩn cấp.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Tật Ách, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XII – Tật Ách” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

Khám bệnh qua Lá Số Tử Vi

A. Kiến thức tối giản về TẠNG PHỦ

A1. NGŨ TẠNG

Tạng là các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng trữ tinh, khí, thần, huyết, tân, dịch. Có 5 tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận.

A1.1. Tâm (Tim)

Tạng tâm đứng đầu các tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài, phụ trách các hoạt động về thần trí, huyết mạch, khai khiếu ra lưỡi biểu hiện ra ở mặt.

Tâm thuộc Hoả còn sinh Tỳ thổ, khắc Phế kim, và có quan hệ biểu lý với Tiểu Trường (ruột non) hỏa.

A1.2. Can (Gan)

Can chủ về tàng huyết, chủ về sơ tiết, chủ cân (gân, cơ, khớp), khai khiếu ra mắt, vinh nhuận ra móng tay, móng chân.

Can thuộc Mộc còn sinh Tâm hoả, khắc Tỳ thổ, và có quan hệ biểu lý với Đảm (mật) mộc.

A1.3. Tỳ (Lá lách)

Tạng tỳ ở trung tiêu, chủ về vận hoá nước và đồ ăn, thống huyết, chủ cơ nhục và tứ chi, khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ở môi.

Tỳ thuộc Thổ còn sinh Phế kim, khắc Thận thuỷ có quan hệ biểu lý với Vị (dạ dày) thổ.

A1.4. Phế (Phổi)

Phế chủ hô hấp, chủ khí, có tác dụng tuyên phát và túc giáng (đưa đẩy khí lên xuống), khai khiếu ra mũi và bên ngoài hợp với bì mao (da lông)

Phế thuộc Kim còn sinh Thận thuỷ, khắc Gan mộc và có quan hệ biểu lý với Đại Tràng (ruột già) kim.

A1.5. Thận

Thận chủ về tàng tinh, chủ cốt tuỷ, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể, chủ nạp khí, chủ thuỷ, khai khiếu ra tai, tiền âm, hậu âm và vinh nhuận ra tóc

Thận thuộc Thuỷ còn sinh ra Gan mộc và khắc Tâm hoả, có quan hệ biểu lý với Bàng Quang thủy.

A2. LỤC PHỦ

Phủ là các bộ phận của cơ thể có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hoá, hấp thụ, chuyển vận các chất từ đồ ăn uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có 6 phủ: đảm, vị, tiểu đường, đại trường, bàng quang và tam tiêu.

A2.1. Đảm (mật) - Mộc

Đởm có quan hệ biểu lý với can, chứa chất mật (tinh chấp) do can bài tiết. Cổ nhân nói: “khí thừa của can tràn vào mật, tụ lại thành tinh chấp”. Mật giúp cho việc tiêu hoá đồ ăn. Chất mật có màu xanh, vàng và vị đắng. Khi có bệnh ở đởm thường xuất hiện chứng vàng da, miệng đắng, nôn mửa ra chất đắng.

Đởm còn có chức năng về tinh thần, chủ về quyết đoán.

Can và đởm có quan hệ biểu lý, can chủ về mưu lự, đởm chủ về quyết đoán là cơ sở của lòng dũng cảm, tinh thần giám nghĩ giám làm. Các bệnh về can đởm hay phối hợp với nhau.

A2.2. Vị (dạy dày) - Thổ

Vị chứa đựng và làm nhừ đồ ăn, đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có liên quan biểu lý với nhau, đều giúp cho sự vận hoá đồ ăn, nên gọi chung là “gốc của hậu thiên”.

Khí của tỳ vị gọi tắt là “vị khí” dùng để tiên lượng sự phát triển tốt hay xấu của bệnh và dự kiến của kết quả công tác chữa bệnh, nên người xưa có nói: “vị khí là gốc của con người”, “còn vị khí sẽ sống, hết vị khí sẽ chết”.

A2.3. Tiểu Tràng (ruột non) - Hỏa

Tiểu trường có nhiệm vụ phân thanh, giáng trọc. Thanh (chất trong) là chất tinh vi của đồ ăn được hấp thụ ở tiểu trường, qua sự vận hoá của tỳ đem đi nuôi dưỡng toàn thân,cặn bã sẽ được đưa đến bàng quang để bài tiết qua ngoài. Trọc (chất đục) là cặn bã của đồ ăn đựơc tiểu trường đưa xuống đại trường.

A2.4. Đại Tràng (ruột già) - Kim

Đại trường chứa đựng và bài tiết các chất cặn bã, có quan hệ biểu lý với phế.

A2.5. Bàng Quang - Thủy

Bàng quang chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoà vạư phối hợp của tạng thận.

Nếu sự hoá khí của thận không tốt sẽ gây bí tiểu tiện, đái dắt hoặc đái nhiều lần, tiểu tiện không tự chủ v.v…

A2.6. Tam Tiêu

Tạm tiêu gồm Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu. Thượng tiêu từ miệng xuống tâm vị dạ dày có tạng tâm và phế. Trung tiêu từ tâm vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày xuống hậu môn có tạng can và thận.

Sự hoạt động của tam tiêu biểu hiện ở sự khí hoá và sự vận chuyển đồ ăn, ở thượng tiêu: Phế chủ hô hấp, phân bố khí và chất dinh dưỡng vào huyết mạch được tâm khí đưa đi toàn thân; ở trung tiểu tỳ vị vận hoá hấp thu đồ ăn và đưa nước lên phế, ở hạ tiêu có sự phân biệt thanh trọc, tinh tàng trữ ở thận, các chất cặn bã được thải ra ngoài bằng đường đại tiện và tiểu tiện.

Người ta còn nói tam tiêu chủ việc bảo vệ các tạng phủ trong cơ thể.

B. Tiên thiên Bẩm thụ chi khí

Con người ta được bẩm thụ cái khí của Trời Đất trong thai kỳ và được đánh dấu ngay tại mốc thời điểm sinh ra trên đời. Mệnh lý Tứ Trụ dùng 8 chữ mà diễn hóa mối quan hệ sinh khắc hợp hóa hình hại, để lập nên sơ đồ mô phỏng số mệnh của nhân sinh, trải qua cả ngàn năm nay đã có những nghiệm chứng kỳ diệu. Mệnh lý Đẩu Số vốn coi trọng Thái Âm Lịch và mối quan hệ của các tinh đẩu hơn, nhưng tại Địa Bàn vẫn còn những thông tin về Thái Dương Lịch thông qua Bát Tự mà đa phần người ta lãng quên khai thác.

Mệnh lý gia, lương y Khiên Ngưu Tử đã tổng kết rất giản dị về mối quan hệ giữa ngũ hành của các Phủ Tạng và 4 Thiên Can trong Tứ Trụ để mà chẩn đoán sơ lược về sức khỏe của người ta. Phép này đã được truyền cho nhiều bác sĩ Đông Tây Y để có thêm thông tin tham khảo bệnh tại các bước Vọng (trông), Văn (nghe), Vấn (hỏi) trước khi tới bước tối hậu là Thiết (xét mạch). Nay, ta nhắc lại về Ngũ Hành của Thiên Can và đem áp dụng vào lá số Tử Vi đơn giản như sau:

Giáp, Ất thuộc Mộc

Bính, Đinh thuộc Hỏa

Mậu, Kỷ thuộc Thổ

Canh, Tân thuộc Kim

Nhâm, Quý thuộc Thủy.

B1. Xem 4 Thiên Can trong Bát Tự gồm những chữ gì. (Chú ý là Bát Tự phải xác định theo Thái Dương Lịch, tức là theo Tiết Khí).

Ví dụ 1: Kỷ Tị - Ất Hợi - Ất Hợi - Bính Tuất

Thì 4 Can chính là Kỷ, Ất, Ất, Bính.

Ví dụ 2: Kỷ Tị - Tân Mùi - Nhâm Thìn - Ất Tị

Thì 4 Can chính là Kỷ, Tân, Nhâm, Ất.

B2. Xem trong 4 Can ấy bất cập (không đủ) ở Hành gì.

Như trong vd1 thì thấy vắng mặt hành Kim (không có Canh / Tân), và vắng mặt hành Thủy (không có Nhâm / Quý).

Còn trong vd2 thì chỉ vắng mặt hành Hỏa (không có Bính / Đinh).

B3. Đối chiếu Ngũ Hành bất cập với Phủ Tạng và dự đoán.

Như vd1 thiếu Kim, thì tương ứng với các Phủ Tạng là Phế và Tiểu Trường sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở phổi, hệ hô hấp, ruột non, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.

Ngoài ra, vd1 còn thiếu Thủy, tương ứng với các Phủ Tạng là Thận và Bàng Quang sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở thận, bàng quang, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.

Như vd2 thiếu Hỏa, tương ứng với các Phủ Tạng là Tim và Tiểu Trường sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở tim mạch, huyết áp, ruột non, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.

B4. Đối chiếu Ngũ Hành thái quá (dư thừa) với Phủ Tạng và dự đoán.

Ví dụ 3: Giáp Tuất - Ất Hợi - Giáp Thìn - Quý Dậu

Thì tại 4 Can thấy Mộc thái quá (Giáp, Ất, Giáp) khiến cho Gan Mật dễ có vấn đề. Đồng thời bất cập ở hành Thổ (vắng mặt Mậu, Kỷ), dĩ nhiên thổ tại Tỳ Vị đã yếu lại còn bị Mộc vượng đến tương khắc thì loại phủ tạng dễ phát sinh bệnh nhất ở người này là Dạ dày, Lá lách.

B5. Đối chiếu với các tinh đẩu tại Tật Ách cung mà đưa ra kết luận cuối cùng.

Như người mà thái quá ở hành Kim và bất cập ở hành Mộc thì dự đoán sơ lược được Phổi, hệ hô hấp, xương khớp, Đại Tràng, gan mật sẽ có vấn đề.

Khi đối chiếu với cung Tật Ách nếu thấy Nhật / Nguyệt hãm hoặc hội sát tinh thì có thể kết luận là mắt kém, bệnh ở Gan mật khai khiếu ra mắt.

Khi đối chiếu với cung Tật Ách người này, nếu thấy Song Hao thì có thể kết luận Đại tràng có vấn đề, bộ máy tiêu hóa rất kém.

Lưu ý 1: nếu Tên gọi của đương số đồng hành với loại Ngũ Hành bất cập, thì được coi là đã có sự bổ sung, sẽ làm giảm khả năng phát sinh bệnh từ các phủ tạng tương ứng.

Lưu ý 2: khi đương số còn ở tuổi thanh niên, sinh lực sung mãn thì những biểu hiện bệnh ở các phủ tạng sẽ khó để nhận ra / chưa phát tác.

Lưu ý 3: việc dự đoán này chỉ là một hình thức tham khảo thông tin, những vấn đề về sức khỏe và bệnh tật thì nên tới các cơ sở khám chữa bệnh chuyên sâu để xác định.


Còn tiếp...

0 lượt xem0 bình luận

Bài đăng liên quan

Xem tất cả

Comentarios

Obtuvo 0 de 5 estrellas.
Aún no hay calificaciones

Agrega una calificación
bottom of page