top of page
Ảnh của tác giảThi Kieu Oanh Tran

GIẢI ĐOÁN CUNG MỆNH.



Các bước phía trên (phần A, B ) đã nói rất nhiều đến những lý luận để giải đoán cung Mệnh, đồng thời những phần tính lý chung của các sao cũng hầu hết đều dùng cung Mệnh làm đại diện để mô tả tính chất của chúng. Cho nên mọi người cần đọc lại và nắm cho vững, còn trong phần này xin dành để trình bày phần phụ luận cho cung Mệnh với các điểm cần quan tâm như an Mệnh vào Kim Tỏa Thiết Xà và an Mệnh theo giờ Quan Sát.

a, Kim Tỏa Thiết Xà quan.

Về tên gọi thì còn được biết đến với tên gọi là “Kim Xà Thiết Tỏa”, nhưng quả thực tôi cũng không hiểu nghĩa của “Kim Xà Thiết Tỏa” là cái gì, theo tôi suy đoán thì có lẽ do phương pháp truyền khẩu nên đây là một cách gọi lệch đi của “Kim Tỏa Thiết Xà” mà thôi, dần dà cứ gọi nhiều thành quen nên cứ dùng như vậy.

“Kim Tỏa” thì chúng ta vẫn thường biết đến với cụm từ “vòng Kim Tỏa” tức là vòng xiềng xích khóa chặt, vây hãm nguy hiểm,… và “Thiết Xà” nghĩa là con rắn đen, còn chữ “quan” có nghĩa là cửa ải. Vì vậy, “Kim Tỏa Thiết Xà quan” có nghĩa là cái cửa ải nguy hiểm bị bao vây bởi những con rắn đen, hoặc nghĩa là Khóa vàng Rắn sát bao vây.

Cách xác định cung an vào chỗ Kim Tỏa Thiết Xà quan như sau:

Đương tòng Tuất thượng, khởi Tý niên,

Thuận số hành niên, nguyệt nghịch thôi,

Nhật hựu thuận số, thì nghịch chuyển,

Tiểu nhi thọ yểu, khả tiên tri.

(Tuất cung hô Tý đếm theo năm,

Thuận tới niên sinh, nghịch tháng trăng,

Đi thuận ngày sinh, giờ nghịch chuyển

Tiên tri trẻ thọ hoặc yểu chăng).

Phép ấy, theo Tuất cung khởi năm Tý mà đi thuận cho đến Địa Chi năm sinh, (đến cung nào) lại từ đó mà khởi tháng Giêng đếm nghịch tới Tháng Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến Ngày Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi giờ Tý đếm nghịch đến Giờ Sinh.

Nếu cung cuối cùng mà thấy của Nam rơi vào cung Thìn Tuất, của Nữ rơi vào Sửu Mùi thì gọi là rơi vào “Kim Tỏa Thiết Xà quan” (hoặc gọi là sinh vào giờ Kim Tỏa Thiết Xà), rất đáng lo ngại vì từ lúc sinh ra khó nuôi, dễ chết yểu, phải qua 12 tuổi thì mới đỡ lo.

Nếu cung cuối cùng mà thấy của Nam rơi vào Sửu Mùi, của Nữ rơi vào Thìn Tuất thì gọi là Bàng giờ, trẻ tuy là hay ốm yếu khó nuôi nhưng còn đỡ lo ngại về yểu tử hơn là rơi vào chính cửa ải Kim Tỏa Thiết Xà.

Nguyên lý nào dẫn đến hiện tượng này, cho đến nay vẫn chưa được lý giải thuyết phục, chỉ thấy kinh nghiệm của các cụ truyền lại và thực tế có nhiều ứng nghiệm như vậy, thành ra cần phải nghiên cứu thêm nữa.

Lưu ý: Nhấn mạnh trường hợp tính đến cung cuối cùng (lúc tính đến giờ sinh) lại trúng cung an Mệnh mà trùng lặp vào chỗ Thìn Tuất (với Nam), chỗ Sửu Mùi (với Nữ) đồng thời khi tính Kim Tỏa Thiết Xà Quan. Những lá số như thế rất đáng lo ngại. Ngoài ra, khi tính Kim Tỏa Thiết Xà Quan nhưng cung an Mệnh không trùng vào chỗ Thìn Tuất Sửu Mùi thì ít lo ngại hơn, tuy nhiên vẫn thuộc mẫu lá số có nguy cơ cao về yểu mạng, sau 13 tuổi thì đỡ lo. Cách giải là đem bán khoán trẻ cho nhà chùa.

 b, Cung lập Mệnh với giờ Quan Sát

Giờ Quan Sát được xác định bằng cách dùng tháng sinh và giờ sinh như:

Sinh tháng Giêng vào giờ Tị,

sinh tháng Hai vào giờ Ngọ,

sinh tháng Ba vào giờ Mùi,

sinh tháng Tư vào giờ Thân,

sinh tháng Năm vào giờ Dậu,

sinh tháng Sáu vào giờ Tuất,

sinh tháng Bảy vào giờ Hợi,

sinh tháng Tám vào giờ Tý,

sinh tháng Chín vào giờ Sửu,

sinh tháng Mười vào giờ Dần,

sinh tháng Một vào giờ Mão,

sinh tháng Chạp vào giờ Thìn.

Đương số rơi vào các trường hợp trên thì gọi là sinh vào giờ Quan Sát, thường hay ốm yếu, bệnh tật, hoặc dễ bị các tai nạn,…

Với cách an Mệnh cung trong Tử Vi thì ta dễ dàng nhận thấy, sinh vào giờ Quan Sát chính là trường hợp cung Mệnh luôn luôn an cố định tại cung Dậu. Và ở vị trí này thì Mệnh cung vĩnh viễn nhị hợp vào cung Tật Ách, luôn trái lý âm dương với nhau. Tam hợp Cục của cung Mệnh thuộc Kim và sinh xuất cho tam hợp Cục của cung Tật thuộc Thủy, khiến cho nguyên khí của Mệnh cung bị tổn hao, suy giảm. Trường hợp này, quả là Mệnh bị coi như là cung Nô của Ách. Nhân gây ra ở Mệnh thì Quả chịu ở Tật Ách.

Tương đồng cái lý của giờ Quan Sát thì ta bắt gặp một số trường hợp đặc biệt chính là “giờ Dạ Đề”.

Cách tính giờ Dạ Đề là:

sinh mùa Xuân vào giờ Ngọ,

sinh mùa Hạ vào giờ Dậu,

sinh mùa Thu vào giờ Tý,

sinh mùa Đông vào giờ Mão.

Trẻ con mà rơi vào các trường hợp này thì rất hay kêu khóc vào đêm (dạ đề), có khi khóc suốt 3 tháng (hoặc 100 ngày) đầu đời.

Như ta đã biết, mỗi mùa gồm có 3 tháng, phân ra làm Mạnh – Trọng – Quý, nếu như xét các tháng Chính giữa mùa là:

Trọng Xuân (chứa điểm Xuân Phân, Mặt Trời ở kinh độ 0 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Hai, sinh vào giờ Ngọ;

Trọng Hạ (chứa điểm Hạ Chí, Mặt Trời ở kinh độ 90 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Năm, sinh vào giờ Dậu;

Trọng Thu (chứa điểm Thu Phân, Mặt Trời ở kinh độ 180 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Tám, sinh vào giờ Tý;

Trọng Đông (chứa điểm Đông Chí, Mặt Trời ở kinh độ 270 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Một, sinh vào giờ Mão;

Thì thấy rõ ràng giờ Dạ Đề là một dạng của giờ Quan Sát, chỉ có điều khi xét chung cho cả 3 tháng của một mùa thì ảnh hưởng phân tán nên không bị ảnh hưởng mạnh mẽ như là giờ Quan Sát mà thôi.

Nguyên lý của giờ Quan Sát, giờ Dạ Đề, giờ Tướng Quân, giờ Diêm Vương, đều có thể sử dụng lý luận của Thiên Văn học (mối quan hệ của Trái Đất và Mặt Trời) và lý luận của Âm Dương Ngũ Hành (gốc của Y lý) để giải thích rất dễ dàng.


còn tiếp...

1 lượt xem0 bình luận

Bài đăng liên quan

Xem tất cả

Comments

Rated 0 out of 5 stars.
No ratings yet

Add a rating
bottom of page